Lịch sử di cư Người Việt tại Đức

Tây Đức

Cộng đồng người Việt tại Tây Đức gồm có những người tị nạn sau Chiến tranh Việt Nam. Những thuyền nhân rời Việt Nam đầu tiên sau khi Sài Gòn thất thủ, gồm có 208 gia đình với tổng cộng 644 người trên con thuyền Hải Hồng, đã đến Hannover bằng máy bay vào ngày 3 tháng 12 năm 1978. Không ai trong số đó có thể nói tiếng Đức[8]. Một số nhân tố đã giúp đỡ họ trong việc hội nhập kinh tế và xã hội trong xã hội Đức. Họ đã nhận được trợ cấp chính phủ dưới hình thức phúc lợi xã hội và giúp đỡ tìm việc làm, cũng như sự ủng hộ của xã hội nói chung trong việc hội nhập vào cuộc sống tại Đức. Hơn thế nữa, khác những nhóm người nhập cư khác, họ nhận thức rằng họ không còn cơ hội hồi hương nếu họ thất bại tại miền đất mới. Họ đã tham gia trong nhiều lĩnh vực kinh tế, nhưng gần như tập trung vào ngành kim loại[9]. Đến lúc nước Đức thống nhất, Tây Đức có khoảng 33.000 người di dân gốc Việt, chủ yếu là những thuyền nhân và thân nhân của họ được vào theo diện đoàn tụ gia đình[10].

Đông Đức

Thợ khách tại Erfurt, 1989Thợ may Việt ở Rostock, 1990

Moritzburger

Moritzburger là tên gọi khoảng 350 người Việt tới Moritzburg và một trại khác ở Sachsen, DDR, bằng đường xe lửa kéo dài 3 tuần qua Bắc Kinh, Moskva, Warszawa vào năm 1955 theo thỏa thuận giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòaCộng hòa Dân chủ Đức. Chờ đợi chào đón là những trẻ mồ côi nhưng tới lại là con cái các cán bộ góp phần trong cuộc chiến tranh chống Pháp, tuổi từ 9 đến 15. Họ đã ở lại tới 1959. Khoảng 150 người Moritzburger sau đó lại sang DDR học nghề rồi học đại học.[11][12]

Học tập và lao động

Đông Đức bắt đầu mời những sinh viên Bắc Việt để tham gia các chương trình học tập và đào tạo từ thập niên 1950; sự hợp tác được mở rộng năm 1973, khi họ hứa sẽ đào tạo 10.000 người nữa trong 10 năm tiếp theo. Năm 1980, Đông Đức ký hiệp định với nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam để các hãng Đông Đức đào tạo người Việt; giữa 1987 và 1989[3]/ Chính phủ Đông Đức xem các chương trình đào tạo công nghiệp không những là một cách để tăng số người lao động trong ngành công nghiệp sở tại, mà còn là một hình thức viện trợ phát triển cho các thành viên nghèo trong khối xã hội chủ nghĩa[9]. Đến giữa thập niên 1980, người Việt, cùng với người Mozambique, tạo thành những nhóm lao động ngoại quốc chính tại Cộng hòa Dân chủ Đức[13]. Từ một dân số 2.482 trong năm 1980, số người Việt tại Đông Đức đã tăng đến 59.053 trong năm 1989, với số người vào lớn nhất trong năm 1987 và 1988[14]. Họ chủ yếu tập trung trong các thành phố Karl-Marx-Stadt, Dresden, Erfurt, Đông BerlinLeipzig[15]. Theo hợp đồng, họ ở Đông Đức 5 năm, sau đó họ sẽ hồi hương[3].

Những người lao động khách Việt Nam nhận tiền lương khoảng M 400/tháng, trong đó chính phủ Việt Nam lấy 12%, và một phần khác được trả bằng hàng hóa tiêu dùng—chủ yếu máy may, xe đạp, quần áo, đường và xà phòng—thay vì tiền mặt vì lạm phát. Khi nói đến các đặc điểm và quan hệ của họ đối với xã hội Đông Đức, họ gần như hoàn toàn trái ngược với những thuyền nhân: họ thuộc thành phần ưu tú từ quốc gia gốc, thay vì là những người tị nạn, và họ biết rằng họ sẽ rời Đức, cho nên không cố gắng hội nhập với xã hội Đông Đức hay học ngôn ngữ sở tại[16]. Mặc dù trên danh nghĩa là những người anh em từ hai nước xã hội chủ nghĩa, những người được huấn luyện từ Việt Nam và những người Đức làm việc với họ không được khuyến khích liên hệ với nhau; thêm vào đó, phụ nữ Việt Nam có thai bị bắt buộc phá thai[17]. Đôi khi họ cũng gặp bạo lực từ những thành phần bài ngoại, và trong những trường hợp họ được bảo đảm an toàn cá nhân, họ bị căm ghét vì họ được ưu đãi trong việc nhận hàng hóa tiêu dùng[15]. Mặt dù cả hai quốc gia đều là nước xã hội chủ nghĩa, nhiều người đã giúp gia đình mình thành tiểu tư sản, dùng những nguyên liệu và máy may gửi về Việt Nam để may đồ và bán cho các người láng giềng[14].

Nước Đức thống nhất

Sau khi nước Đức thống nhất, chính phủ Đức tìm cách giảm bớt số người lao động khách ở miền Đông bằng cách cho mỗi người M3.000 để rời khỏi Đức và hồi hương. Hàng chục nghìn người đã đồng ý và về Việt Nam, nhưng những người này lại được thay thế bởi những người Việt làm lao động hợp đồng ở những nước Đông Âu khác xin tị nạn[3]. Trong suốt thập niên 1990, các cố gắng của chính phủ Đức để đưa những người nhập cư này về quê hương không được hiệu quả cho lắm, vì Đức không muốn cưỡng bức những người này hồi hương và Việt Nam lại không muốn tiếp nhận họ; tuy nhiên, gần 40% bị cấm ở lại Đức dài hạn[18].

Căng thẳng giữa người Đức và người Việt gây ra bạo lực bắt đầu vào ngày 22 tháng 8 năm 1992 tại thành phố Rostock, Mecklenburg-Vorpommern ở đông bắc nước này, nơi những người thanh niên đầu trọc và Tân Quốc xã đã tấn công người Di-gan từ România, và trong ngày thứ ba đã đốt ngôi chung cư nơi trên 100 người Việt tị nạn đang sinh sống. Một số người bị thương nhưng không ai thiệt mạng; cảnh sát đã sơ tán những người Việt cư trú tại đó nhưng không có hành động gì đối với những người tấn công[19][20]. Một tuần sau, những người biểu tình cực đoan đốt một thành phố trại tại Berlin. Tuy một số người địa phương đã cổ vũ vụ Rostock, hầu hết những người Đức tỏ vẻ phê phán hơn về các hành động này; 15.000 người cánh tả đã biểu tình phản đối bạo lực[21]. Thị trưởng của Rostock, ông Klaus Kilimann, đang đi nghỉ mát mãi đến ngày thứ ba của sự việc, bị chỉ trích là làm sự việc xấu thêm vì không ra lệnh cảnh sát can thiệp sớm hơn; ông lại đổ lỗi vào các viên chức của bang, nhưng sau khi chịu nhiều sức ép, đã từ chức vào cuối năm 1993[22].

Hiện nay, có hơn 80 Hội đoàn với các quy mô khác nhau trên toàn nước Đức. Các Hội đoàn mạnh và có ảnh hưởng sâu rộng đối với Đức và bà con Việt Nam là: VIFI ở Bochum, Hội Doanh nghiệp Việt Nam toàn quốc; Hội người Việt của Berlin, Hội Cựu chiến binh Việt Nam tại Berlin – Brandenburg, Hội phụ nữ Việt Nam ở Berlin, Hội người Tràng An, Hội Người Hà Nội tại CHLB Đức, Hội Thiện Từ Tâm Berlin; Hội người Việt Nam ở Brandenburg; Hội Diên Hồng ở Rostock; Hội người Việt Nam của Leipzig, Magdeburg, Dresden và Chemnitz; Hội đồng hương Thái Bình, Thanh Hoá, Hải Phòng, Hội Kinh Bắc; Trung tâm Thương mại Đồng Xuân, Trung tâm Thương mại châu Á-Thái Bình Dương...Các Hội đoàn người Việt Nam mong muốn hợp tác với Hội hữu nghị Việt Nam-Đức, trước mắt là việc trao đổi thông tin, giới thiệu đối tác, sau đó sẽ tiến hành thực hiện các dự án cụ thể từ nhỏ đến lớn trong khả năng cho phép. Các Hội người Việt Nam tại Đức thực sự là chỗ dựa tin cậy của bà con Việt kiều. Các Hội đã tích cực, chủ động tổ chức nhiều hoạt động trong cộng đồng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bà con Việt kiều và được Đại sứ quán Việt Nam đánh giá cao [23]

Băng đảng Việt Nam tại Đức

Tình trạng băng đảng Việt Nam tại Đức trở nên trầm trọng, với khoảng 6 băng nhóm gồm 150 người mỗi nhóm cạnh tranh nhau tại khu vực Berlin năm 1996. Chỉ 5 tháng đầu năm 1996 đã có 15 vụ giết người trong các băng đảng này[24]. Các thành phần tội phạm này buôn lậu thuốc lá và điều hành các ổ cờ bạc, mại dâm và sang băng lậu. Năm 1994, Việt Nam đồng ý nhận lại những người lao động khách để đổi cho $65 triệu tiền "tài trợ phát triển", tuy nhiên đến cuối năm đó chỉ chịu nhận 67 người thay vì 2500 người như đã hứa hẹn[24]. Một số nhà điều tra Đức tin rằng Hà Nội tỏ ra miễn cưỡng khi nhận lại những người lao động khách vì những người cầm đầu các tổ chức tội phạm tại Đức có thể là quan chức chính quyền hay sĩ quan quân đội cấp cao tại Việt Nam[24].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người Việt tại Đức http://www.highbeam.com/doc/1P2-1022203.html http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9D0... http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9F0... http://pqasb.pqarchiver.com/latimes/access/6162931... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.avys.de/ http://www.cicero.de/berliner-republik/die-unsicht... http://www.dienhong.de/ http://www.dw-world.de/dw/article/0,1564,1408694,0... http://www.dw-world.de/dw/article/0,2144,1047447,0...